Xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản 6 tháng đầu năm 2025 tăng 15,5% so với cùng kỳ

Ngày 3/7/2025, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức họp báo thường kỳ thông tin về kết quả của ngành trong 6 tháng đầu năm 2025. Theo đó, tính đến cuối tháng 6, cả nước đã gieo cấy được khoảng 5,2 triệu ha lúa, tăng 0,03% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, diện tích lúa đã thu hoạch ước đạt 3,33 triệu ha, tăng 0,5% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng ước trên diện tích thu hoạch đạt trên 22,7 triệu tấn, bằng 101,7% so với cùng kỳ năm ngoái.

KIM NGẠCH XUẤT KHẨU ĐẠT GẦN 34 TỶ USD

Đối với ngành chăn nuôi, ước tính đến cuối tháng 6/2025, đàn lợn của cả nước tăng 3,8% so với cùng kỳ năm trước, đàn gia cầm tăng 4%, trong khi tổng số trâu giảm 3,4%, đàn bò giảm 0,6%. Với ngành lâm nghiệp, ước  diện tích rừng trồng mới tập trung 6 tháng 153,5 nghìn ha, tăng 18,9% so với cùng kỳ; sản lượng gỗ khai thác 6 tháng đạt 11,2 triệu m3, tăng 9%.

Trong 6 tháng đầu năm 2025, sản lượng thủy sản thu hoạch cả nước ước đạt 4.550,9 nghìn tấn, tăng 3,1% so với cùng kỳ năm 2024.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến chủ trì họp báo. Ảnh Chu Khôi.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến chủ trì họp báo. Ảnh Chu Khôi.

Kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản tháng 6/2025 ước đạt 5,93 tỷ USD, tăng 5,3% so với tháng 6 năm 2024. Luỹ kế 6 tháng, tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản đạt 33,84 tỷ USD, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản đạt 18,46 tỷ USD, tăng 17,8%; giá trị xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi đạt 264,4 triệu USD, tăng 10,1%; giá trị xuất khẩu thủy sản đạt 5,16 tỷ USD, tăng 16,9%; giá trị xuất khẩu lâm sản đạt 8,82 tỷ USD, tăng 9,3%; giá trị xuất khẩu đầu vào sản xuất đạt 1,13 tỷ USD, tăng 23,6%; giá trị xuất khẩu muối đạt 5,7 triệu USD, tăng 2,4 lần".

Xét theo vùng lãnh thổ, châu Á là thị trường xuất khẩu lớn nhất của các mặt hàng nông lâm thuỷ của Việt Nam với thị phần chiếm 42%. Hai thị trường lớn tiếp theo là châu Mỹ và châu Âu với thị phần lần lượt là 23,5% và 15,6%. Thị phần của 2 khu vực châu Phi và châu Đại Dương nhỏ, chiếm lần lượt 3,2% và 1,2%. So với cùng kỳ năm trước, ước giá trị xuất khẩu nông lâm thuỷ sản của Việt Nam 6 tháng đầu năm 2025 sang khu vực châu Á tăng 2,3%; châu Mỹ tăng 18,7%; châu Âu tăng 46,3%; châu Phi tăng 99,5%; và châu Đại Dương tăng 2,7%.

Xét theo thị trường chi tiết, Hoa Kỳ với thị phần 21,1%, Trung Quốc với thị phần 17,6%, và Nhật Bản với thị phần 7,2%, là 3 thị trường xuất khẩu các mặt hàng nông lâm thuỷ sản lớn nhất của Việt Nam. So với cùng kỳ năm trước, ước giá trị xuất khẩu nông lâm thuỷ sản của Việt Nam 6 tháng đầu năm 2025 sang thị trường Hoa Kỳ tăng 16%, Trung Quốc giảm 0,7%, và Nhật Bản tăng 25,5%.

MỘT SỐ MẶT HÀNG CHỦ LỰC TĂNG TRƯỞNG TÍCH CỰC, CÀ PHÊ LÀ ĐIỂM SÁNG NỔI BẬT

Trong 6 tháng đầu năm 2025 ghi nhận sự tăng trưởng tích cực của xuất khẩu nhiều mặt hàng nông sản, thủy sản và lâm sản chủ lực. Trong khi một số nhóm hàng giảm nhẹ về khối lượng do yếu tố mùa vụ hoặc cạnh tranh, giá xuất khẩu bình quân lại tăng mạnh, giúp kim ngạch nhiều mặt hàng đạt mức cao kỷ lục, phản ánh nhu cầu thị trường quốc tế vẫn ổn định và có dấu hiệu phục hồi rõ rệt.

Xuất khẩu cà phê tiếp tục là điểm sáng nổi bật trong 6 tháng đầu năm 2025. Ước tính riêng tháng 6, khối lượng cà phê xuất khẩu đạt 130 nghìn tấn, trị giá 741,1 triệu USD. Lũy kế 6 tháng, tổng khối lượng xuất khẩu đạt 953,9 nghìn tấn, kim ngạch đạt 5,45 tỷ USD, tăng 5,3% về lượng và tăng tới 67,5% về giá trị so với cùng kỳ năm trước.

"Xuất khẩu cà phê là điểm rực rỡ nhất trong 6 tháng đầu năm nay, với kim ngạch kỷ lục cao nhất từ trước đến nay - 5,45 tỷ USD, tăng tới 67,5% về giá trị so với cùng kỳ năm trước".

Ông Phùng Đức Tiến, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường.

Giá xuất khẩu cà phê bình quân đạt 5.708,3 USD/tấn, tăng mạnh 59,1% so với cùng kỳ năm 2024. Đức, Italia và Tây Ban Nha là ba thị trường tiêu thụ lớn nhất, chiếm lần lượt 16,3%, 7,9% và 7,4% thị phần. Đặc biệt, giá trị xuất khẩu cà phê sang Đức trong 5 tháng đầu năm tăng gấp 2,2 lần; Italia tăng 45,1% và Tây Ban Nha tăng 55,8%. Mức tăng kỷ lục được ghi nhận ở thị trường Mexico với mức tăng tới 71,6 lần.

Trong tháng 6/2025, xuất khẩu cao su ước đạt 130 nghìn tấn, trị giá 219,9 triệu USD. Tổng cộng 6 tháng đầu năm, khối lượng xuất khẩu đạt 680,1 nghìn tấn, kim ngạch đạt 1,27 tỷ USD, giảm 6,5% về lượng nhưng tăng 14,4% về giá trị. Giá xuất khẩu bình quân tăng 22,4%, đạt 1.864,7 USD/tấn.

Trung Quốc tiếp tục là thị trường tiêu thụ cao su lớn nhất của Việt Nam, chiếm tới 70% thị phần. Xuất khẩu sang thị trường này trong 5 tháng đầu năm tăng 34%. Tuy nhiên, xuất khẩu sang Ấn Độ giảm 32,3%, Hàn Quốc gần như đi ngang (tăng 0,1%). Mức tăng mạnh nhất thuộc về thị trường Malaysia (tăng 4,6 lần), trong khi Sri Lanka ghi nhận mức giảm sâu nhất (41,1%).

Trong nửa đầu năm 2025, xuất khẩu gạo đạt 4,9 triệu tấn, tương đương 2,54 tỷ USD, tăng 7,6% về lượng nhưng giảm 12,2% về giá trị. Giá xuất khẩu bình quân chỉ còn 517,5 USD/tấn, giảm 18,4% so với cùng kỳ năm ngoái.

Philippines là thị trường xuất khẩu lớn nhất với thị phần 43,4%, nhưng giá trị xuất khẩu sang nước này lại giảm 17,4%. Ngược lại, xuất khẩu gạo sang Bờ Biển Ngà và Ghana tăng lần lượt 88,6% và 61,4%. Đáng chú ý, xuất khẩu sang Bangladesh tăng vọt tới 293,2 lần, trong khi thị trường Malaysia giảm mạnh nhất, tới 54,7%.

Giá trị xuất khẩu rau quả 6 tháng đầu năm 2025 đạt 3,05 tỷ USD, giảm 8,4% so với cùng kỳ năm 2024. Nguyên nhân chủ yếu đến từ sự sụt giảm mạnh của thị trường Trung Quốc – nơi chiếm 48,2% tổng giá trị xuất khẩu rau quả của Việt Nam. Xuất khẩu sang Trung Quốc giảm 35,1%, dù thị trường Mỹ tăng 65,2% và Hàn Quốc giảm nhẹ 5,3%. Hồng Kông ghi nhận mức tăng mạnh nhất với 69,2%.

Xuất khẩu hạt điều 6 tháng đầu năm đạt 346,8 nghìn tấn, trị giá 2,36 tỷ USD, giảm nhẹ 2,7% về lượng nhưng tăng tới 20,4% về giá trị nhờ giá bình quân đạt 6.805,4 USD/tấn (tăng 23,8%).

Trung Quốc, Mỹ và Hà Lan là ba thị trường lớn nhất với thị phần lần lượt 22%, 21,6% và 8,4%. Trong đó, giá trị xuất khẩu sang Trung Quốc tăng 41,2%, Mỹ tăng nhẹ 0,1% và Hà Lan tăng 22,4%. Các thị trường mới nổi như UAE ghi nhận mức tăng 50,4%, trong khi thị trường Australia giảm 16,1%.

Xuất khẩu hạt tiêu trong 6 tháng đạt 124,9 nghìn tấn với giá trị 859,6 triệu USD, giảm 12,4% về lượng nhưng tăng 35,7% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái. Giá xuất khẩu bình quân đạt 6.881 USD/tấn, tăng 54,8%.

Hoa Kỳ, Đức và Ấn Độ là ba thị trường lớn nhất, với thị phần tương ứng là 26,8%, 9,2% và 7,7%. Tăng trưởng xuất khẩu sang Ấn Độ đạt 86,7%, Đức tăng 73,7% và Mỹ tăng 34,8%. Thị trường Anh tăng gấp 2,1 lần, trong khi Hà Lan giảm 12,5%.

Ngành thủy sản ghi nhận kim ngạch 5,16 tỷ USD trong 6 tháng đầu năm, tăng 16,9% so với cùng kỳ năm 2024. Riêng tháng 6, giá trị xuất khẩu đạt khoảng 950 triệu USD. Các thị trường lớn gồm Trung Quốc (19,6%), Mỹ (18,2%) và Nhật Bản (15%).

Xuất khẩu thủy sản sang Trung Quốc tăng 53,7%, Mỹ tăng 22,8%, Nhật Bản tăng 9,1%. Mức tăng cao nhất ghi nhận tại Brazil (71,3%) và mức giảm thấp nhất tại Australia (1,4%).

Xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ đạt 8,21 tỷ USD trong 6 tháng, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm trước. Thị trường Mỹ vẫn là khách hàng lớn nhất, chiếm 55,6% thị phần. Nhật Bản và Trung Quốc theo sau với lần lượt 12,6% và 10,4%.

Xuất khẩu sang Mỹ tăng 12,1%, Nhật Bản tăng 26,7%, nhưng Trung Quốc giảm 20,2%. Trong nhóm 15 thị trường xuất khẩu lớn, Tây Ban Nha có mức tăng mạnh nhất (55,4%).

Tình hình xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2025 cho thấy, dù một số mặt hàng có sụt giảm về khối lượng, nhưng nhờ giá xuất khẩu bình quân tăng mạnh, nhiều ngành hàng vẫn đạt tăng trưởng giá trị ấn tượng. Đặc biệt, sự mở rộng và đa dạng hóa thị trường đã giúp giảm thiểu rủi ro, mở ra triển vọng thuận lợi cho xuất khẩu nửa cuối năm 2025.

Nguồn: TBKTVN