Việt Nam cần có chiến lược phù hợp trong tiến trình dịch chuyển dòng vốn xanh

Tại lễ kỷ niệm 30 năm quan hệ đối tác Việt Nam và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) giữa tháng 3 vừa qua, Chủ tịch ADB Masatsugu Asakawa cho biết ADB dự kiến huy động nguồn lực lên tới 3 tỷ USD cho khoảng 23 dự án tại Việt Nam giai đoạn 2023-2026.

Để có được nguồn lực lớn như vậy trong ba năm tới, không thể phủ nhận kết quả tích cực của 30 năm qua. Trong 30 năm qua, tổng hỗ trợ của ADB dành cho Việt Nam đã lên tới khoảng 18 tỷ USD, cải thiện kết nối khu vực; tăng cường quản lý môi trường và đầu tư xanh; thúc đẩy quá trình chuyển đổi sang phát triển có khả năng chống chọi với khí hậu; tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ giáo dục, y tế và xã hội; cũng như hỗ trợ sự phát triển của cộng đồng dân tộc thiểu số.

TÍCH CỰC HỖ TRỢ VIỆT NAM

ADB đã cam kết 2,1 tỷ USD cho Việt Nam để thực hiện Thỏa thuận hợp tác chuyển dịch năng lượng công bằng (JETP) cũng như Cơ chế chuyển đổi năng lượng (ETM) - một công cụ tài chính mới để các nhà máy nhiệt điện chạy than sớm ngừng hoạt động, sử dụng các nguồn năng lượng sạch hơn. “Đây là cơ hội đặc biệt cho chúng ta”, ông Asakawa nói.

Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Ngân hàng Xuất - Nhập khẩu Hoa Kỳ (EXIM) Reta Jo Lewis và Chủ tịch Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB), ông Lê Văn Hoan, đã ký Biên bản ghi nhớ (MOU) trị giá 500 triệu USD để tạo điều kiện tài trợ cho hàng hóa xuất khẩu của Hoa Kỳ sang Việt Nam trong khuôn khổ phái đoàn các công ty hàng đầu của Hoa Kỳ đến Hà Nội từ ngày 18 đến 21/3/2024. EXIM sẽ hợp tác chặt chẽ với Ngân hàng Phát triển Việt Nam để xác định các dự án về cơ sở hạ tầng, năng lượng tái tạo và các dự án khác nhằm thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh ở Việt Nam.

“Bản ghi nhớ mà chúng tôi đã ký thể hiện cam kết chung của hai nước trong việc tăng cường thúc đẩy quan hệ thương mại Hoa Kỳ - Việt Nam và nỗ lực tạo ra các cơ hội giúp củng cố nền kinh tế của hai nước”, Chủ tịch Lewis chia sẻ.

Ngày 6/3/2024, Tập đoàn Tài chính quốc tế (IFC) đã công bố khoản đầu tư mới trị giá 64 triệu USD cho Công ty TNHH Sermsang Palang Ngan (SPN) thông qua cơ chế cho vay xanh nhằm giúp phát triển thêm nhiều dự án năng lượng tái tạo ở Thái Lan, Indonesia và Việt Nam, giải quyết vấn đề năng lượng của khu vực.

Gần đây, IFC cũng đã đầu tư tới 3.500 tỷ đồng (khoảng 150 triệu USD) vào các trái phiếu liên kết bền vững bằng nội tệ do Công ty cổ phần BIM Land và công ty con là Công ty cổ phần Thanh Xuân phát hành, nhằm giúp các doanh nghiệp phát hành mở rộng kinh doanh; đồng thời tạo việc làm, nâng cao khả năng cạnh tranh và hỗ trợ mô hình tăng trưởng carbon thấp của Việt Nam.

Theo ông Thomas Jacobs, Giám đốc Quốc gia IFC tại Việt Nam, Campuchia và Lào, vốn tư nhân là chìa khóa cho quá trình chuyển đổi xanh của Việt Nam. “Việc phát hành trái phiếu liên kết bền vững bằng nội tệ đầu tiên trong nước là một tín hiệu tích cực cho sự phát triển của các công cụ tài chính xanh sáng tạo như một kênh huy động vốn mới cho các dự án thông minh với khí hậu tại Việt Nam, và khoản đầu tư của IFC cũng sẽ khuyến khích các nhà phát triển gắn lợi ích của họ với hoạt động đầu tư có trách nhiệm để có thể huy động vốn từ thị trường vốn xanh, thúc đẩy sự phát triển của ngành du lịch bền vững”, ông cho biết.

Đến nay, IFC đã cam kết tài trợ dài hạn hơn 900 triệu USD để hỗ trợ các dự án liên quan đến khí hậu tại quốc gia này. Các cam kết của IFC tại Việt Nam đạt gần 1,9 tỷ USD trong năm tài chính 2023, kết thúc vào ngày 30 tháng 6, giúp các công ty trong nước phục hồi sau đại dịch Covid-19 và vượt qua môi trường bên trong và bên ngoài đầy thách thức.

Việt Nam và Ngân hàng Thế giới (WB) đã nhất trí đẩy nhanh việc thực hiện các dự án hiện có và thúc đẩy các dự án thay đổi cuộc chơi trong khuôn khổ khoản vay 5-7 tỷ USD dành cho Việt Nam trong ba năm tới, theo thỏa thuận giữa Thủ tướng Phạm Minh Chính và Chủ tịch WB Ajay Banga tại Dubai vào tháng 12 năm 2023 bên lề Hội nghị các bên về biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc lần thứ 28 (COP28). Ông Banga khẳng định WB coi Việt Nam là đối tác quan trọng và sẽ tiếp tục đồng hành, hỗ trợ Việt Nam đạt được các mục tiêu phát triển.

Trước đó, Ban Giám đốc WB đã phê duyệt khoản tín dụng trị giá 263,9 triệu USD của Hiệp hội Phát triển quốc tế cho Việt Nam nhằm thúc đẩy các nỗ lực của đất nước nhằm đạt được sự phục hồi kinh tế toàn diện, xanh và dựa trên kỹ thuật số với những cải cách nhằm hỗ trợ các hộ gia đình, doanh nghiệp và mở rộng năng lượng tái tạo.

“Những cải cách được hỗ trợ bởi khoản tín dụng này sẽ củng cố quá trình phục hồi đang diễn ra của Việt Nam sau đại dịch Covid-19 và những cú sốc giá hàng hóa tiếp theo, đồng thời mở đường cho sự phát triển toàn diện hơn, xanh hơn và thân thiện với kỹ thuật số hơn”, bà Carolyn Turk, Giám đốc Quốc gia WB tại Việt Nam cho biết. 

KHẢ NĂNG THÍCH ỨNG CỦA VIỆT NAM

HSBC Việt Nam đã công bố cam kết thu xếp nguồn tài trợ bền vững trực tiếp và gián tiếp lên tới 12 tỷ USD cho Việt Nam và khu vực doanh nghiệp tại Việt Nam đến năm 2030. Mục tiêu tài trợ là hỗ trợ các mục tiêu đầy tham vọng về khí hậu của Chính phủ Việt Nam và cam kết COP26 trở thành nền kinh tế phát thải ròng bằng 0 năm 2050. Ngân hàng đã bày tỏ kế hoạch hỗ trợ tài chính và chuyên môn cho các dự án xanh và bền vững đầy hứa hẹn và quan trọng của các doanh nghiệp tại Việt Nam, những dự án đóng vai trò quan trọng trong việc khử cacbon cho nền kinh tế đất nước.

“Cho đến nay, chúng tôi đã hỗ trợ nhiều lĩnh vực khác nhau trong khu vực công và tư nhân, bao gồm cả những lĩnh vực xanh thuần túy (tức là năng lượng tái tạo, nước và chất thải), những lĩnh vực dễ bị tổn thương trước rủi ro biến đổi khí hậu như nông nghiệp cũng như các lĩnh vực khác trong lĩnh vực sản xuất (chẳng hạn như dệt may và điện tử)”, ông Daniel Small, Giám đốc Khối Ngân hàng Cấu trúc & Tài chính bền vững, HSBC Việt Nam, cho biết.

Theo HSBC, Việt Nam đã công bố một loạt mục tiêu bền vững, bao gồm cam kết đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Việt Nam bày tỏ quyết tâm khi trở thành quốc gia thứ 12 gửi Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) cập nhật vào năm 2020. Kể từ đó, nhiều chiến lược và chính sách đã được xây dựng để hiện thực hóa các cam kết này. Ông Small khẳng định các chính sách của Việt Nam nói chung đều hỗ trợ phát triển kinh tế xanh và bền vững.

Chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia của Việt Nam 2021-2030 và tầm nhìn đến năm 2050 là minh chứng cho những nỗ lực của đất nước. Trong khi đó, Kế hoạch huy động nguồn lực JETP đã được công bố tại COP28 và hiện đang trong quá trình chuẩn bị triển khai và thí điểm.

Quy hoạch phát triển Điện VIII (PDP8) và kế hoạch triển khai sắp tới đã cho thấy tiềm năng đầu tư rất lớn vào năng lượng tái tạo nhằm mục tiêu đạt tới 40% năng lượng tái tạo trong cơ cấu năng lượng vào năm 2030. Kể từ khi trở thành quốc gia thứ ba tham gia JETP, Việt Nam tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý đồng thời xây dựng cơ chế thực hiện và xác định các dự án thí điểm. Điều này đang thúc đẩy những thay đổi tích cực trong môi trường pháp lý, mở đường cho các khoản đầu tư tư nhân trong tương lai vào quá trình chuyển đổi năng lượng.

Thị trường tài chính bền vững của Việt Nam hiện bao gồm tín dụng xanh, chứng khoán xanh và trái phiếu xanh. Dư nợ tín dụng xanh tăng trưởng bình quân khá cao, trên 20%/năm, cao hơn mức tăng trưởng tín dụng bình quân của nền kinh tế giai đoạn 2017-2022.

Tính đến tháng 6/2023, 43 tổ chức tín dụng đã tham gia tài trợ cho các dự án xanh và bền vững. Việc công bố bắt buộc về môi trường, xã hội, quản trị (ESG) và việc ra mắt Chỉ số bền vững Việt Nam (VNSI) cho các công ty niêm yết đã phần nào giải quyết được các vấn đề về minh bạch và thông tin sự bất đối xứng. Trong giai đoạn 2019-2023, Việt Nam đã phát hành hơn 1 tỷ USD trái phiếu xanh để tài trợ cho các dự án năng lượng tái tạo, rác thải và nông nghiệp.

THÁCH THỨC ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

Ông Banga cũng đặc biệt đánh giá cao những nỗ lực, quyết tâm của Chính phủ Việt Nam trong chuyển đổi xanh, ứng phó với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững, triển khai Dự án trồng một triệu ha lúa năng suất cao, ít phát thải, coi đây là hình mẫu của WB về dự án nông nghiệp xanh trên khắp thế giới, giúp giảm lượng khí thải mêtan và mang lại lợi ích tài chính rõ ràng cho người dân thông qua cơ chế tín dụng carbon.

Trong khi đó, ông Asakawa đánh giá cao việc Việt Nam tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu như trao quyền cho phụ nữ, đặc biệt là cam kết, tầm nhìn, quyết tâm, nỗ lực và các giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu và đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.

Tuy nhiên, theo HSBC, một trong những thách thức chính trong phát triển bền vững và tài chính là thiếu hệ thống phân loại chi tiết, đặc biệt là trong việc xác định “bền vững” và “xanh”. Mặc dù Chính phủ đang xây dựng khung pháp lý nhưng ngành ngân hàng vẫn chủ yếu dựa vào giám sát nội bộ. Việc thiếu các quy định rõ ràng cũng dẫn đến sự do dự khi tiến hành các dự án bền vững lớn đòi hỏi nguồn tài chính phức tạp.

ESG cũng là một thách thức đang diễn ra đáng được đề cập. Hơn 90% công ty Việt Nam là doanh nghiệp  nhỏ và vừa, nhưng chỉ các công ty niêm yết mới được yêu cầu đề cập đến hiệu quả hoạt động và chiến lược ESG trong báo cáo thường niên của họ. Thậm chí, hầu hết thông tin được cung cấp đều ở mức cơ bản, không có sự xác minh của bên thứ ba, ngoại trừ một số lượng khiêm tốn các công ty sở hữu chứng chỉ quốc tế. Tuy nhiên, các nhà đầu tư có thể không dựa vào điều này để đánh giá hiệu suất ESG của công ty, do đó thiếu tự tin để đầu tư.

Đồng thời, các tiêu chuẩn bền vững hiện nay đối với doanh nghiệp Việt Nam cũng tạo ra thách thức về tài chính. Ông Small cho biết vì các tiêu chuẩn chính thức của đất nước chưa có sẵn hoặc chưa được thiết lập để triển khai trong tương lai, nên các tổ chức tài chính như HSBC phải tuân theo và điều chỉnh các tiêu chuẩn quốc tế. “Những tiêu chuẩn này có thể quá cao đối với hầu hết các công ty, khiến họ không thể tiếp cận nguồn tài chính bền vững”, ông lưu ý.

Theo đánh giá của WB, Việt Nam là một trong những quốc gia dễ bị tổn thương nhất trước biến đổi khí hậu. Nếu không có các biện pháp thích ứng và giảm thiểu phù hợp, ước tính biến đổi khí hậu sẽ làm giảm 12-14,5% GDP hàng năm vào năm 2050 và có thể đẩy tới một triệu người vào cảnh nghèo cùng cực vào năm 2030. Thực hiện lộ trình phát triển chống chịu khí hậu và đạt được mục tiêu lượng khí thải ròng bằng 0, dự kiến Việt Nam sẽ cần đầu tư thêm 6,8% GDP, tương đương 368 tỷ USD, từ nay đến năm 2040.

Nếu có các chính sách và chiến lược phù hợp, Việt Nam có thể tận dụng những hoạt động khử carbon của mình để đạt được mục tiêu phát triển sao cho phát thải khí nhà kính ròng bằng “0” không làm giảm tốc độ tăng trưởng GDP.

MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ

Các cam kết của Chính phủ có thể và cần được củng cố bằng sự tham gia của khu vực tư nhân trong nước và thông qua các nguồn lực tài chính nước ngoài, nhà nước và tư nhân.

Cụ thể, các biện pháp thích ứng cần tập trung vào những lĩnh vực và địa điểm dễ bị tổn thương nhất của đất nước, đặc biệt là nông nghiệp, giao thông, thương mại và công nghiệp, các vùng ven biển và Đồng bằng sông Cửu Long. Các cải cách chính sách bổ trợ trong lĩnh vực tài khóa và tài chính có thể kích thích đầu tư từ cả khu vực công và khu vực tư nhân.

Để Việt Nam tiến tới mục tiêu phát thải khí nhà kính ròng bằng 0 vào năm 2050, cần đầu tư lớn vào năng lượng, giao thông, nông nghiệp và công nghiệp. Các khoản đầu tư ngành sẽ cần được hỗ trợ bởi công cụ định giá carbon. Công cụ này sẽ thay đổi hành vi và giúp huy động vốn cho quá trình chuyển đổi. Ví dụ, việc tăng thuế carbon lên 29 USD trên mỗi tấn carbon dioxide tương đương (tCO2e) vào năm 2030 và 90 USD trên mỗi tCO2e vào năm 2040, sẽ tạo ra nguồn thu bổ sung 80 tỷ USD. Các biện pháp hỗ trợ sẽ giúp đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng 0 mà không làm chậm tốc độ tăng trưởng GDP.

Trong khi đó, để đáp ứng nhu cầu vốn, cần phân bổ lại tiết kiệm từ khu vực tư nhân trong nước sang các dự án liên quan đến khí hậu, tăng tiết kiệm từ khu vực công và huy động hỗ trợ tài chính từ bên ngoài. Đầu tư công có thể chiếm khoảng một phần ba tổng vốn đầu tư và có thể được tài trợ thông qua thuế carbon hoặc đi vay trên thị trường trong nước. Nguồn vốn tư nhân tương đương khoảng 3,4% GDP mỗi năm có thể được huy động thông qua tín dụng xanh từ các ngân hàng, cổ phiếu xanh và trái phiếu xanh, cũng như áp dụng các công cụ giảm thiểu rủi ro.

Là thành viên của Liên minh tài chính Glasgow vì Net Zero (GFANZ), tổ chức sẽ giúp thu xếp 7,75 tỷ USD từ khu vực tư nhân cho JETP của Việt Nam, HSBC tin rằng tài chính hỗn hợp là một công cụ đầy hứa hẹn giúp huy động nguồn tài chính cần thiết cho quá trình chuyển đổi của Việt Nam thông qua đầu tư chung giữa vốn công và vốn tư nhân. Ví dụ, HSBC đã giúp thu xếp Trái phiếu bền vững có thể trao đổi trị giá 425 triệu USD đầu tiên trên thế giới và Khoản vay hợp vốn xanh có thời hạn trị giá 500 triệu USD cho Tập đoàn Group và các công ty con.

Ông Small cho biết thêm, khuôn khổ pháp lý và chính sách rõ ràng là điều kiện hàng đầu để thúc đẩy phát triển và đầu tư vào các công nghệ và dự án bền vững. Hiện nay, nhiều nhà đầu tư vẫn còn thận trọng khi đầu tư vào Việt Nam. Mối quan tâm chính của họ là tính minh bạch, xác thực và khung pháp lý. Tuy nhiên, nhiều chính sách được công bố nhưng việc thực hiện đôi khi chỉ được giải thích một cách mơ hồ. Các ưu đãi cũng là một yếu tố quan trọng trong việc thúc đẩy sự tham gia, vì các dự án xanh và bền vững thường có thời hạn trung và dài hạn với rủi ro cao có thể nằm ngoài khả năng chấp nhận rủi ro của các tổ chức tài chính.

“Để giúp chuyển dịch dòng vốn xanh và tăng cường phát triển bền vững cho Việt Nam, Chính phủ cần tăng cường tính minh bạch, thắt chặt các quy định liên quan đến ESG và hạn chế tình trạng bất cân xứng thông tin giữa nhà đầu tư và doanh nghiệp. Trong những năm gần đây, một nhóm nhỏ các công ty đã áp dụng các biện pháp công bố ESG tự nguyện để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài và đáp ứng các điều kiện khắt khe của một số thị trường xuất khẩu nhất định như châu Âu, nhưng để nhận được kết quả tích cực trên quy mô lớn, việc công bố ESG mạnh mẽ cần phải được pháp luật điều chỉnh”, ông Small chia sẻ.

Việt Nam cần có chiến lược phù hợp trong tiến trình dịch chuyển dòng vốn xanh - Ảnh 1

Việt Nam cần có chiến lược phù hợp trong tiến trình dịch chuyển dòng vốn xanh - Ảnh 2

Nguồn: TBKTVN