Cần cơ chế cởi mở và đột phá để xây dựng trung tâm tài chính quốc tế

Trong nhiều năm qua, Việt Nam đã đạt được những bước tiến quan trọng trong việc huy động và phân bổ nguồn lực tài chính phục vụ cho phát triển kinh tế, tuy nhiên, Việt Nam cũng đang đối diện với một số hạn chế trong việc khai thác các nguồn lực tài chính.

Đây là chia sẻ của ông Johnathan Hạnh Nguyễn, Chủ tịch Tập đoàn Liên Thái Bình Dương (IPPG), tại hội thảo “Phát huy và nâng cao hiệu quả các nguồn lực tài chính phát triển kinh tế đất nước trong bối cảnh mới” do Ban Kinh tế Trung ương chỉ đạo, Vụ Kinh tế tổng hợp phối hợp với Tạp chí Kinh tế Việt Nam và các cơ quan liên quan tổ chức.

Theo ông Johnathan Hạnh Nguyễn, phát huy và nâng cao hiệu quả các nguồn lực tài chính là một trong những vấn đề then chốt ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển bền vững của Việt Nam.

4 ĐIỂM CHÍNH CẦN CẢI THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ KHAI THÁC VÀ SỬ DỤNG NGUỒN LỰC TÀI CHÍNH

Tại hội thảo, ông Johnathan Hạnh Nguyễn đã đưa ra 4 vấn đề chính để cải thiện và nâng cao hiệu quả khai thác và sử dụng nguồn lực tài chính.

Thứ nhất là cơ chế thu hút nguồn lực từ tư nhân, thúc đẩy hợp tác công tư PPP. Hiện nay, thu hút đầu tư PPP đa số tại các dự án hạ tầng, vì vậy nên mở rộng sang các dự án tài chính, các dự án lớn về cơ sở hạ tầng tài chính, quỹ đầu tư mạo hiểm và các chương trình hỗ trợ khởi nghiệp, năng lượng, công nghệ thông tin và các dự án công cộng có ý nghĩa chiến lược. Tuy nhiên, để các cơ chế này thực hiện thực sự phát huy hiệu quả, cần xem xét, điều chỉnh một số vấn đề.

Trước tiên là cần tiếp tục hoàn thiện luật pháp về PPP một cách minh bạch và ổn định, đặc biệt là về quy trình đấu thầu, phân chia rủi ro giữa các bên và bảo đảm quyền lợi cho các nhà đầu tư tư nhân.

Tiếp đến là đa dạng hoá các hình thức đầu tư như mô hình đối tác công tư, đầu tư công, quản trị tư, đầu tư tư, quản trị công. Việc áp dụng linh hoạt các mô hình này sẽ tạo ra sự chủ động chu khu vực tư nhân trong quản lý và vận hành dự án. Đồng thời giảm tải gánh nặng cho ngân sách nhà nước.

Tạo cơ chế về thuế, tín dụng và hỗ trợ tài chính phù hợp để thu hút các doanh nghiệp, tập đoàn lớn tham gia đầu tư vào các dự án trọng điểm cũng rất quan trọng.

Thứ hai là cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp và tập đoàn kinh tế tư nhân tiếp nhận vốn từ thị trường quốc tế. Qua việc nâng cao năng lực quản trị tài chính và minh bạch hóa báo cáo tài chính, tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế về quản trị tài chính. Điều này sẽ giúp họ xây dựng uy tín và nâng cao cơ hội huy động vốn trên thị trường quốc tế.

Đặc biệt, Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong việc phát hành trái phiếu quốc tế, đồng thời thúc đẩy quá trình niêm yết trên các sàn giao dịch quốc tế, tạo điều kiện để họ tiếp cận được nguồn vốn lớn từ các nhà đầu tư nước ngoài.

Cần tăng cường hợp tác với các tổ chức tài chính quốc tế như Ngân hàng thế giới, Quỹ Tiền tệ quốc tế. Các quỹ đầu tư quốc tế này sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận gói hỗ trợ kỹ thuật tài chính và tư vấn chuyên sâu, giúp nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Thứ ba là mở rộng và cải thiện khung pháp lý để thu hút vốn ngoại. Chính phủ cần xem xét mở rộng room giới hạn sở hữu và điều chỉnh các chính sách ưu đãi để thu hút các tập đoàn tài chính quốc tế lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho họ tham gia vào việc phát triển thị trường tài chính. Điều này không chỉ giúp tăng cường nguồn lực mà còn mang lại công nghệ quản trị hiện đại và tri thức tài chính tiên tiến.

Thứ tư là thành lập trung tâm tài chính quốc tế. Việc thành lập trung tâm tài chính quốc tế nhằm huy động nguồn lực tài chính cho Việt Nam và cơ chế để hình thành trung tâm tài chính quốc tế.

CẦN THIẾT PHẢI XÂY DỰNG TRUNG TÂM TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

Trong các hiến kế để cải thiện và nâng cao hiệu quả khai thác và sử dụng nguồn lực tài chính tại Việt Nam, ông Johnathan Hạnh Nguyễn đặc biệt nhấn mạnh việc thành lập trung tâm tài chính quốc tế với nhiều ý kiến tâm huyết. IPPG rất tâm huyết về việc này và đã tài trợ cho đề án trung tâm tài chính quốc tế tại TP.HCM và Đà Nẵng.

“Chúng tôi nhận thấy việc xây dựng trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam là chiến lược dài hạn, có ý nghĩa quan trọng, không chỉ để thu hút nguồn lực tài chính mà còn nâng tầm vị thế của Việt Nam trên bản đồ kinh tế toàn cầu,” ông chia sẻ. “Hiện các bộ ban ngành từ thành phố đến trung ương đã tham gia góp ý đề án.”

Theo đó, Chủ tịch Tập đoàn IPPG đã chỉ ra một số lợi ích quan trọng mà Việt Nam có được khi xây dựng trung tâm tài chính quốc tế.

Trung tâm tài chính sẽ giúp gia tăng hiệu quả, phân bổ nguồn lực tài chính. Hiện tại Việt Nam đã có nền tảng tốt với hệ thống ngân hàng và thị trường tài chính đang phát triển. Tuy nhiên, việc tập trung các nhiệm vụ tài chính vào một trung tâm quy mô sẽ tạo ra sự kết nối tốt hơn nữa giữa các nguồn vốn tong nước và quốc tế. Điều này sẽ nâng cao khả năng huy động vốn cho các dự án quan trọng, góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế.

Bên cạnh đó, trung tâm tài chính sẽ thu hút các định chế tài chính quốc và dòng vốn FDI chất lượng cao. Với việc xây dựng một môi trường đầu tư minh bạch, pháp lý rõ ràng và cơ sở hạ tầng hiện đại, Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành điểm đến lý tưởng cho các tập đoàn tài chính và nhà đầu tư quốc tế. Điều này không chỉ mang lại nguồn vốn dồi dào mà còn thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ và trí thức tài chính tiên tiến cho nền kinh tế Việt Nam.

Trung tâm tài chính sẽ góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu. Trong bối cảnh cạnh tranh khu vực ngày càng gay gắt, việc có một trung tâm tài chính tầm cỡ quốc tế sẽ giúp Việt Nam khẳng định vai trò và vị trí của mình trong mạng lưới kinh tế toàn cầu, qua đó mở rộng thêm cơ hội hợp tác quốc tế và tham gia sâu hơn vào các tổ chức tài chính quốc tế.

Trung tâm tài chính cũng là nơi kết nối tài chính trong khu vực và quốc tế. Trung tâm tài chính quốc tế Việt Nam sẽ liên kết với các Trung tâm tài chính quốc tế lớn trong khu vực như Singapore, Hồng Kông (Trung Quốc) và Thượng Hải để tận dụng quản lý vốn và dòng chảy tài chính quốc tế. Đồng thời thức đẩy các cơ chế hợp tác tài chính và thương mại với các quốc gia khác, tạo điều kiện cho dòng vốn siêu biên giới đổ về Việt Nam.

Tuy nhiên, ông Johnathan Hạnh Nguyễn cũng cho biết Việt Nam đang thiếu một chiến lược tổng thể rõ ràng về phát triển trung tâm tài chính quốc tế.

“Chưa có một kế hoạch dài hạn và nhất quán về xây dựng cơ chế chính sách cũng như lộ trình phát triển, tạo ra sự không chắc chắn cho các nhà đầu tư lớn muốn tham gia sớm vào thị trường,” ông chia sẻ. “Tôi đã kết nối và làm việc được với các tổ chức tài chính ở Anh, Mỹ, Trung Quốc, Singapore và từ năm 2016, chúng tôi đã đệ trình một cơ chế với sự cố vấn của một công ty tài chính của Luân Đôn. Chúng tôi đã nhận được những góp ý của cấp ban ngành, sửa đổi thêm cho phù hợp, tuy nhiên đến nay vẫn chưa có thêm tiến triển gì.”

Cách đây 2 năm, nếu được thông qua, phía nhà đầu tư Mỹ đã cam kết trước mắt họ sẽ đồng ý rót vốn khoảng 10 tỷ USD vào Việt Nam. Trong đó 4 tỷ USD ở Đà Nẵng và 6 tỷ USD ở TP.HCM để xây dựng trung tâm tài chính quốc tế. Tuy nhiên, đến thời điểm này, các nhà đầu tư Mỹ có thể đã chùn chân.

“Tôi tin rằng các nhà đầu tư cần một cơ chế cởi mở và đột phá hơn,” ông Johnathan Hạnh Nguyễn cho biết. “Họ cần sự cam kết từ Chính phủ và một chiến lược rõ ràng để thấy rằng đây là một kế hoạch bền vững và có tiềm năng.”

Cuối cùng, Chủ tịch Tập đoàn IPPG vẫn nhấn mạnh rằng trong bối cảnh toàn cầu hoá, việc phát huy và nâng cao hiệu quả các nguồn lực tài chính là chìa khoá để Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng và đảm bảo phát triển bền vững. “Điều này đòi hỏi sự đồng lòng của chính phủ, cộng đồng doanh nghệp và các tổ chức tài chính trong và ngoài nước,” ông khẳng định. “Tôi tin rằng nếu chúng ta có chiến lược rõ ràng, chính sách nhất quán và tận dụng tốt các cơ hội từ các xu hướng mới như chuyển đổi số, Việt Nam hoàn toàn có thể vươn lên trở thành một điểm sáng về hiệu quả quản lý và khai thác các nguồn lực tài chính trong khu vực và trên thế giới.”

Nguồn: TBKTVN